Ở trẻ em dưới 5 tuổi hiện nay có gần 1/3 bị thiếu máu và hơn 2/3 bị thiếu kẽm. Tình trạng thiếu hụt vi chất dinh dưỡng báo động đặc biệt ở trẻ em vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Thiếu vi chất dinh dưỡng ảnh hưởng xấu đến thể chất và trí tuệ
Theo BS Trần Khánh Vân, Viện Dinh dưỡng Quốc gia, vi chất dinh dưỡng là thuật từ chung chỉ các loại vitamin và chất khoáng mà cơ thể con người cần cho các chức năng sống trong suốt cuộc đời. Nói cách khác vi chất dinh dưỡng là những chất mà cơ thể chỉ cần một lượng rất nhỏ nhưng không thể thiếu được.
Vi chất dinh dưỡng bao gồm các vitamin như vitamin A, D, E, K, vitamin C, các vitamin nhóm B và các khoáng chất như sắt, kẽm, i ốt, selen… Việc thiếu một số vi chất dinh dưỡng quan trọng như iốt, vitamin A, sắt, folate, kẽm, mặc dù rất khó phát hiện, song có thể đưa đến những hậu quả to lớn.
Thiếu vi chất dinh dưỡng có thể dẫn đến mù lòa, tổn thương não, thai chết lưu, tăng nguy cơ dị tật ống thần kinh, tăng nguy cơ mắc các bệnh nhiễm trùng và tử vong ở phụ nữ mang thai và trẻ nhỏ, giảm năng suất lao động ở người trưởng thành. Thiếu vi chất dinh dưỡng ảnh hưởng bất lợi đến sự phát triển cả về thể chất và trí tuệ. Thiếu sắt và I ốt làm giảm chỉ số thông minh (IQ) ở trẻ em từ 10-15 điểm.
Theo TS.BS Huỳnh Nam Phương, Viện Dinh dưỡng Quốc gia, thực trạng dinh dưỡng của trẻ em vùng dân tộc thiểu số rất đáng báo động. Việt Nam với gánh nặng 3 lần về suy dinh dưỡng gồm suy dinh dưỡng thấp còi, suy dinh dưỡng nhẹ cân và thể thừa cân béo phì. Tỉ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi giai đoạn 1990-2020 đã giảm đáng kể, từ 56.5% vào năm 1990 xuống còn 19,6% năm 2020.
Tình trạng dinh dưỡng ở trẻ em từ 5-19 tuổi, năm 2020 có 12,2% trẻ em suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, 14,8% trẻ em suy dinh dưỡng thể thấp còi và 19,0% trẻ thừa cân béo phì. Xu hướng giảm tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng cũng được khắc phục, giảm từ 45,2% năm 1990 xuống còn 19,6% năm 2020.
Chênh lệch các chỉ số dinh dưỡng giữa vùng miền vẫn còn cách biệt đáng kể. Tỉ lệ suy dinh dưỡng thấp còi trẻ em dưới 5 tuổi trên toàn quốc trung bình là 19,6% trong đó vùng miền núi phía Bắc chiếm 37,4%, Tây Nguyên 28,8%, miền Trung là 17,4%, Đồng bằng sông Hồng 11,2%, đồng bằng sông Cửu Long 12,4% và thấp nhất là Đông Nam Bộ 9,7%. Trong đó chênh lệch vùng thành thị – nông thôn- miền núi tương ứng là 12.4%-14,9% và 38%.
Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam thường xuyên đối mặt với tình trạng thiếu dinh dưỡng. Mặc dù tỷ lệ suy dinh dưỡng toàn quốc đã giảm, tỷ lệ thấp còi ở trẻ em là người dân tộc thiểu số (31.4%) vẫn cao gấp 2 lần nhóm trẻ là người Kinh (15.0%) đồng thời tỷ lệ trẻ em là người dân tộc thiểu số thiếu cân cũng lớp hơn gấp 2,5 lần (21% so với 8,5%) so với trẻ em là người Kinh. Hơn nữa, 119.957 (60%) trong tổng số 199.535 trẻ em bị suy dinh dưỡng thể thấp còi ở 10 tỉnh thành có tỷ lệ thể thấp còi cao nhất cả nước đều là người dân tộc thiểu số.
Theo ước tính Việt Nam có khoảng 7,5 triệu trẻ em dưới 5 tuổi, thì số trẻ em bị thiếu vitamin A tiền lâm sàng là gần 1 triệu. Thiếu vi chất dinh dưỡng được gọi là “nạn đói tiềm ẩn” do khó phát hiện, khi các triệu chứng biểu hiện rầm rộ thành bệnh đặc trưng như bệnh thiếu máu, khô mắt do thiếu vitamin A thì dễ phát hiện nhưng sự tăng trưởng và phát triển cả về thể chất và trí tuệ đã bị ảnh hưởng trong thời gian dài và đôi khi thiếu vi chất dinh dưỡng để lại những hậu quả nghiêm trọng, không thể hồi phục được.
Khẩu phần ăn không đáp ứng đủ nhu cầu vi chất dinh dưỡng
Nguyên nhân của tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng là do khẩu phần ăn của người dân không đảm bảo cung cấp đủ các vi chất dinh dưỡng cho nhu cầu cơ thể. Theo điều tra của Viện Dinh dưỡng, khẩu phần ăn của người dân Việt Nam hầu hết không đáp ứng đủ 100% nhu cầu về các vitamin và chất khoáng. Bên cạnh đó, vi chất dinh dưỡng từ nguồn thức ăn động vật có giá trị sinh học cao hơn, cơ thể dễ hấp thu và sử dụng hơn so với thức ăn nguồn gốc thực vật, nhưng các thức ăn động vật đều có giá thành cao nên làm giảm sự tiếp cận thường xuyên của người dân với nguồn vi chất dinh dưỡng có giá trị sinh học cao đặc biệt người dân ở nông thôn, miền núi và các vùng khó khăn.
Khắc phục điều này, uống bổ sung vi chất dinh dưỡng là một giải pháp ngắn hạn quan trọng có thể giúp cải thiện được ngay tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng. Chương trình uống bổ sung vitamin A cho trẻ em đã được triển khai trên toàn quốc. Nhờ chương trình này, trẻ em Việt Nam từ 6 tháng tới 36 tháng tuổi (63 tỉnh/thành) và trẻ từ 37-60 tháng tuổi (ở 22 tỉnh khó khăn) được uống bổ sung viên nang vitamin A liều cao một năm 2 lần vào ngày 1-2/6 và ngày 1-2/12.
Người dân cần tích cực mang con tham gia ngày vi chất dinh dưỡng để được sử dụng vitamin A, chủ động mua và sử dụng viên sắt, viên đa vi chất hoặc bột bổ sung đa vi chất theo hướng dẫn của cán bộ y tế.
Tăng cường vi chất dinh dưỡng vào thực phẩm trong đó các thực phẩm như muối, nước mắm, nước tương (xì dầu), hạt nêm, dầu ăn được bổ sung I ốt, sắt, kẽm, vitamin A và phân phối trên toàn quốc.
Mục đích chính của tăng cường vi chất vào thực phẩm là “trả lại giá trị dinh dưỡng” với các vi chất dinh dưỡng vốn có trong thực phẩm nhưng đã bị mất do quá trình chế biến. Với chương trình tăng cường vi chất dinh dưỡng vào thực phẩm, nhà nước đã tạo các chính sách hỗ trợ thích hợp cho doanh nghiệp sản xuất thực phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng đồng thời kiểm soát hàm lượng vi chất dinh dưỡng trong thực phẩm, chất lượng thực phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng khi lưu thông trên thị trường.
Người dân chủ động phòng chống thiếu vi chất dinh dưỡng nâng cao sức khỏe cho bản thân và cho gia đình bằng cách thay đổi thói quen tiêu dùng, tìm mua và sử dụng các thực phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng theo khuyến nghị của ngành y tế và các cơ quan quản lý liên quan.
Đa dạng hóa bữa ăn sử dụng nhiều loại thực phẩm giàu vi chất dinh dưỡng trong bữa ăn hàng ngày là giải pháp tự nhiên nhất nhằm cung cấp đủ vi chất dinh dưỡng cho nhu cầu của cơ thể. Đây cũng là giải pháp chiến lược dài hạn cần phấn đấu đạt được và duy trì bền vững. Sử dụng đầy đủ các loại thực phẩm từ bốn nhóm thực phẩm, cân đối khẩu phần ăn, chú ý các thực phẩm nguồn gốc động vật có nhiều vi chất dinh dưỡng có giá trị sinh học cao.
Tuy nhiên, đây cũng là giải pháp cho chi phí giá thành lớn nhất do các thực phẩm có giá trị sinh học cao thường có giá đắt (ví dụ hải sản giàu I ốt, kẽm, thịt đỏ giàu sắt) và người dân ở nông thôn, miền núi hoặc các vùng khó khăn ít có cơ hội tiếp cận thường xuyên trong khi nhu cầu vi chất dinh dưỡng là nhu cầu hàng ngày.
Việc triển khai đồng bộ các giải pháp phòng chống thiếu vi chất dinh dưỡng bao gồm uống bổ sung các loại vi chất dinh dưỡng, tăng cường vi chất dinh dưỡng vào thực phẩm, sử dụng đa dạng các loại thực phẩm trong bữa ăn hàng ngày là cần thiết nhằm ngăn chặn nạn đói tiềm ẩn đang có nguy cơ ảnh hưởng tới tầm vóc và trí tuệ người Việt Nam.
Theo Sức khỏe & Đời sống
Link bài gốc: https://www.nguoiduatin.vn/bao-dong-tinh-trang-thieu-vi-chat-dinh-duong-o-tre-em-a584460.html