Theo cử tri tỉnh Quảng Ninh, ngày 11/1/2022, Quốc hội ban hành Nghị quyết 43/2022/QH15 quy định một số chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội, trong đó có gói tín dụng ưu đãi lãi suất 2% với nguồn kinh phí từ ngân sách 40.000 tỷ đồng.
Tiếp đó, ngày 20/5/2022, Chính phủ ban hành Nghị định 31/2022/NĐ-CP về hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh. Tuy nhiên đến nay, việc triển khai chậm trễ, không đạt yêu cầu, một phần nguyên nhân là do vướng ở khâu điều hành thực hiện và các quy định liên quan đến nhiều bộ, ngành.
“Kiến nghị Thống đốc NHNN có các giải pháp chỉ đạo, điều hành, một mặt hạ chuẩn cho vay, đồng thời gắn trách nhiệm với các Ngân hàng địa phương vì Ngân hàng là bên cho vay nhưng một số Ngân hàng có tâm lý sợ sai nên việc triển khai còn nhiều vướng mắc, không đạt yêu cầu về tiến độ”, kiến nghị của cử tri.
Về nội dung trên, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết, thực hiện nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết 43/2022/QH15, NHNN đã phối hợp các cơ quan có liên quan trình Chính phủ ban hành Nghị định số 31/2022/NĐ-CP ngày 20/5/2022 về hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh; đồng thời ban hành Thông tư 03/2022/TT-NHNN ngày 20/5/2022 hướng dẫn ngân hàng thương mại (NHTM) triển khai thực hiện.
Nghị định số 31/2022/NĐ-CP và Thông tư 03/2022/TT-NHNN không quy định thêm các điều kiện cho vay so với các quy định thông thường. Do đó, khi khách hàng thuộc đối tượng, đáp ứng điều kiện vay vốn và có nhu cầu hỗ trợ lãi suất (HTLS) sẽ được hỗ trợ theo quy định.
Từ khi chính sách được ban hành tới nay, NHNN và ngành ngân hàng đã tích cực phối hợp các bộ, ngành liên quan triển khai nhiều giải pháp đồng bộ để các đối tượng doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh sớm được tiếp cận chính sách thông qua ban hành nhiều văn bản hướng dẫn, trả lời các vấn đề phát sinh, chỉ đạo các NHTM đẩy mạnh triển khai thực hiện.
Tại các văn bản này, Thống đốc NHNN yêu cầu các đơn vị trong toàn ngành Ngân hàng xác định đây là chủ trương, chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước, là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, cần khẩn trương, quyết liệt, kịp thời triển khai thực hiện với tinh thần, trách nhiệm cao nhất để góp phần tích cực vào quá trình phục hồi, phát triển kinh tế; Chủ động triển khai chính sách từ trung ương đến địa phương, từ NHNN đến các NHTM, từ hội sở chính đến chi nhánh, trong quá trình triển khai có sự phối hợp chặt chẽ, kịp thời giữa NHNN, các bộ ngành có liên quan và các NHTM để nâng cao hiệu quả thực thi chính sách.
Tổ chức các Hội nghị tuyên truyền, phổ biến, giải đáp chính sách; truyền thông một cách rộng rãi bằng nhiều hình thức: Truyền hình, báo chí Trung ương và địa phương, tổ chức Hội nghị kết nối ngân hàng – doanh nghiệp, Hội nghị phổ biến trực tiếp đến đối tượng thụ hưởng và các Hiệp hội ngành nghề, Hiệp hội doanh nghiệp… Đồng thời về phía các NHTM cũng đã chủ động tiếp cận khách hàng, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, giúp cho các khách hàng hiểu rõ, đầy đủ về chính sách và cách thức để tiếp cận chính sách HTLS từ NHTM.
Ngoài ra, để nắm bắt thực tế triển khai, các Đoàn công tác liên bộ, ngành (gồm NHNN, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Bộ Xây dựng) đã khảo sát tình hình thực hiện chính sách HTLS tại một số địa phương, qua đó kịp thời đôn đốc, giải đáp thắc mắc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo thuận lợi cho NHTM và khách hàng trong thực hiện.
Đến cuối tháng 8/2023, doanh số HTLS đạt hơn 169.000 tỷ đồng, dư nợ HTLS đạt gần 57.000 tỷ đồng, số tiền HTLS lũy kế từ đầu chương trình đạt khoảng 781 tỷ đồng cho hơn 2.100 khách hàng.
Thực tế triển khai cho thấy, chưa có một chương trình nào được triển khai khẩn trương, quyết liệt như chính sách HTLS theo Nghị quyết 43/2022/QH15 và Nghị định 31/2022/NĐ-CP. Tuy nhiên, kết quả HTLS còn thấp, chưa như kỳ vọng là do một số nguyên nhân đã được nhận diện qua quá trình triển khai thực tế và cũng được các địa phương, doanh nghiệp thừa nhận như:
Khách hàng đủ điều kiện nhưng từ chối nhận HTLS, chủ yếu là do tâm lý e ngại thanh tra, kiểm tra của khách hàng (nhất là các doanh nghiệp), cân nhắc giữa lợi ích từ HTLS 2% và chi phí bỏ ra khi nhận HTLS (theo dõi hồ sơ, chứng từ, tuân thủ các thủ tục hậu kiểm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền). Ngoài ra, khách hàng cũng lo ngại trong trường hợp sau này nếu bị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định phải thu hồi số tiền HTLS thì rất khó xử lý vì lúc đó doanh nghiệp/khách hàng đã hạch toán lợi nhuận/chia cổ tức cho cổ đông. Trên thực tế, một số khách hàng đã được nhận HTLS, song hiện đã chủ động hoàn trả NHTM toàn bộ số tiền lãi đã được hỗ trợ.
NHTM và khách hàng khó khăn trong đánh giá việc đáp ứng quy định “có khả năng phục hồi” tại Nghị quyết 43/2022/QH15 và khoản 4 Điều 3 Nghị định 31/2022/NĐ-CP. Cụ thể, qua báo cáo và khảo sát thực tế từ NHTM và các khách hàng, bản thân khách hàng mặc dù có khả năng trả nợ, song cũng không dám khẳng định “có khả năng phục hồi” (thường được thể hiện thông qua các tiêu chí định lượng như: doanh thu/sản lượng/lợi nhuận tăng hoặc các tiêu chí định tính như đánh giá diễn biến, chiều hướng kinh doanh của khách hàng) vì đánh giá này là rất khó trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt điều kiện kinh tế thế giới đang có nhiều bất ổn trong khi nền kinh tế nước ta có độ mở lớn, hoạt động của các doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào kinh tế quốc tế.
Trường hợp khẳng định hoặc đánh giá các tiêu chí doanh thu, sản lượng, lợi nhuận tăng nhưng thực tế do tác động của nhiều yếu tố bất định dẫn tới các chỉ số này không tăng thì các NHTM và khách hàng e ngại sẽ bị các cơ quan thanh tra, kiểm tra sau này đánh giá trục lợi chính sách. Ngoài ra, một số khách hàng có doanh thu/lợi nhuận trong giai đoạn dịch cao hơn hiện tại nên rất khó để đánh giá đáp ứng tiêu chí “phục hồi”.
Nhiều hộ gia đình sản xuất, kinh doanh vay vốn tại các NHTM, tuy nhiên không có đăng ký hộ kinh doanh theo quy định nên không thuộc đối tượng được hỗ trợ (như Agribank có khoản 50% dư nợ khách hàng là hộ sản xuất, kinh doanh không có đăng ký kinh doanh).
Tâm lý e ngại của các NHTM khi triển khai thực hiện chính sách này do thực tế hiện vẫn còn một số chương trình HTLS chưa được quyết toán số tiền mà các NHTM đã hỗ trợ lãi suất cho khách hàng. Bên cạnh đó, NHTM cũng lo ngại trong trường hợp nếu phải thu hồi số tiền HTLS đã hỗ trợ khách hàng nhưng khách hàng đã tất toán khoản vay, không còn quan hệ với NHTM thì khó thu hồi số tiền này.
Một số nguyên nhân khác như khách hàng xuất khẩu lựa chọn vay USD để tận dụng lợi thế về lãi suất và nguồn thu bằng ngoại tệ sẽ không thuộc đối tượng được HTLS; khó khăn trong bóc tách chi phí vay vốn đa ngành nghề; khách hàng có dư nợ hiện hữu thuộc ngành được HTLS nhưng lại đang quá hạn nên tạm thời chưa được xem xét HTLS theo quy định,…
Ngoài ra, trong thời gian đầu triển khai chính sách (năm 2022), tình hình kinh tế – xã hội nói chung và tình hình hoạt động kinh doanh của các đối tượng, ngành, nghề được HTLS nói riêng đã có nhiều biến chuyển so với bối cảnh cơ sở của việc ban hành Nghị quyết 43/2022/QH15 và Nghị định 31/2022/NĐ-CP (theo Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 12 năm 2022: tăng trưởng kinh tế năm 2022 phục hồi nhanh, đạt 8,02%, trong đó, cả 3 khu vực đều phục hồi, phát triển tốt, thu ngân sách nhà nước vượt 27,76% dự toán, xuất khẩu tăng 10,6%…), nhiều doanh nghiệp trong giai đoạn này đã trở lại hoạt động bình thường sau dịch nên nhu cầu hỗ trợ có thể thay đổi so với thời điểm ban hành chính sách.
Đối với các khó khăn, vướng mắc nêu trên, NHNN đã kịp thời tổng hợp, đánh giá và có nhiều Tờ trình Báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ (từ tháng 11/2022) và đề xuất giải pháp trong thời gian còn lại triển khai chính sách.
Tại Thông báo số 316/TB-VPCP ngày 09/08/2023, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã chỉ đạo NHNN chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tiếp tục thực hiện quyết liệt và thúc đẩy triển khai chính sách hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh.
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, trong thời gian tới, NHNN và ngành Ngân hàng sẽ tiếp tục phối hợp các bộ, cơ quan liên quan thực hiện chính sách với quyết tâm cao nhất, tiếp tục công tác truyền thông, tuyên truyền đẩy mạnh triển khai HTLS để các đối tượng quan tâm được tiếp cận chính sách hỗ trợ từ ngân sách; tích cực phối hợp với các cơ quan liên quan tạo thuận lợi và đẩy nhanh quá trình thanh toán, quyết toán HTLS; kịp thời truyền tải thông tin tới các bộ, cơ quan liên quan để phối hợp tháo gỡ các vướng mắc phát sinh thuộc thẩm quyền và báo cáo các cấp những vấn đề vượt thẩm quyền.
Đồng thời, sẽ tiếp tục chỉ đạo các NHTM dành nguồn lực của chính các ngân hàng để hỗ trợ giảm lãi suất cho khách hàng và tích cực triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, đồng hành cùng người dân, doanh nghiệp, nền kinh tế theo đúng chủ trương của Quốc hội, chỉ đạo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Về đề nghị hạ chuẩn cho vay, NHNN cho biết, theo quy định tại Điều 7, Luật Các TCTD: “1. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Không tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. 2. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có quyền từ chối yêu cầu cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ khác nếu thấy không đủ điều kiện, không có hiệu quả, không phù hợp với quy định của pháp luật”.
Đồng thời, theo quy định tại Thông tư số 39/2016/TT-NHNN về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng (đã sửa đổi, bổ sung), hoạt động cho vay của TCTD đối với khách hàng được thực hiện theo thỏa thuận giữa TCTD và khách hàng, phù hợp với quy định của pháp luật; TCTD xem xét, quyết định cho vay khi khách hàng có đủ các điều kiện vay vốn.
Như vậy, hoạt động cho vay của TCTD đối với khách hàng được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận; khách hàng vay vốn để sử dụng vào mục đích hợp pháp, có phương án sử dụng vốn khả thi, có khả năng tài chính để trả nợ; TCTD quyết định xem xét cho vay phù hợp tình hình hoạt động và khẩu vị rủi ro của TCTD.
Các giải pháp đặc thù ngành Ngân hàng triển khai thời gian qua là nhằm tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh theo chủ trương của Quốc hội, Chính phủ.
Để tạo thuận lợi cho khách hàng trong tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng, NHNN đã và đang thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp như: sẵn sàng nguồn vốn cung ứng cho nền kinh tế, liên tiếp điều chỉnh giảm các loại lãi suất điều hành, thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ… sẽ góp phần trực tiếp tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp, kéo dài thời gian vay và trả nợ ngân hàng, tạo điều kiện tiếp tục quay vòng vốn và tiếp cận vốn vay mới; chỉ đạo TCTD trong quá trình xem xét cho vay chủ động rà soát, đơn giản hóa và rút ngắn quy trình, thủ tục vay vốn, nâng cao hiệu quả thẩm định và đánh giá mức độ tín nhiệm khách hàng nhằm tăng cường khả năng cho vay không có bảo đảm bằng tài sản; triển khai mạnh mẽ, sâu rộng Chương trình kết nối ngân hàng – doanh nghiệp nhằm tháo gỡ kịp thời các khó khăn, vướng mắc trong tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng…
Tuy nhiên, để tăng khả năng tiếp cận vốn, ngoài giải pháp, chính sách từ phía ngành ngân hàng, bản thân doanh nghiệp cần cơ cấu lại hoạt động, nâng cao khả năng tài chính, xây dựng phương án, dự án sản xuất kinh doanh khả thi, tạo niềm tin để các TCTD yên tâm cấp tín dụng…
Như vậy, ngành Ngân hàng đã và đang nỗ lực triển khai nhiều giải pháp để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh. Vấn đề quan trọng hiện nay là thúc đẩy cầu tín dụng từ nền kinh tế trong bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm; do đó, ngoài những giải pháp từ ngành Ngân hàng, cần có sự phối hợp đồng bộ từ các chính sách khác về tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh theo chủ trương của Quốc hội, Chính phủ.
Tuệ Minh
Link bài gốc: https://www.nguoiduatin.vn/ngan-hang-nha-nuoc-noi-gi-ve-viec-cu-tri-kien-nghi-ha-chuan-cho-vay-a630394.html