Số liệu kinh tế – xã hội được Tổng cục Thống kê công bố sáng 29/11 cho thấy, sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 11/2022 tăng 0,3% so với tháng trước và tăng 5,3% so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó, so với cùng kỳ năm trước, ngành chế biến, chế tạo tăng 4,4%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 4,6%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 13,2% ; ngành khai khoáng tăng 16%.
Tính chung 11 tháng năm 2022, IIP ước tăng 8,6% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2021 tăng 4,2%).
Đóng góp vào mức tăng trưởng chung của toàn ngành công nghiệp, chế biến, chế tạo tăng 8,9% (cùng kỳ năm 2021 tăng 5,4%), đóng góp 6,8 điểm phần trăm; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 7,7%, đóng góp 0,7 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,1%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm; ngành khai khoáng tăng 6,5%, đóng góp 1 điểm phần trăm trong mức tăng chung.
Trong 11 tháng năm 2022, một số ngành công nghiệp trọng điểm cấp II tăng cao so với cùng kỳ năm trước, gồm: Sản xuất đồ uống tăng 31%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 18,8%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa tăng 18,4%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 16,7%; sản xuất trang phục tăng 16,4%; sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu tăng 16,2%; sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 12,7%; hoạt động thu gom, xử lý và tái chế phế liệu tăng 11,3%; sản xuất thiết bị điện tăng 10,4%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 10,3%.
Ở chiều ngược lại, chỉ số IIP của một số ngành giảm: Sản xuất kim loại giảm 2,6%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 7%.
Báo cáo của Tổng cục Thống kê cũng cho thấy, chỉ số sản xuất công nghiệp 11 tháng năm 2022 so với cùng kỳ năm trước tăng ở 61 địa phương và giảm ở 2 địa phương trên cả nước. Một số địa phương có chỉ số IIP đạt mức tăng khá cao do ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao.
Cụ thể, Bắc Giang dẫn đầu khi tăng 38,3%, theo sau là Cần Thơ tăng 37,8%; Vĩnh Long tăng 28,8%; Quảng Nam tăng 23,9%; Khánh Hòa tăng 23%; Kiên Giang tăng 22%. Địa phương có chỉ số của ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao: Lai Châu tăng 23%; Sơn La tăng 26%; Đắk Lắk tăng 34,2%; Điện Biên tăng 51,4%.
Ở chiều ngược lại, một số địa phương có chỉ số IIP tăng thấp hoặc giảm do ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; ngành khai khoáng và ngành sản xuất, phân phối điện tăng thấp hoặc giảm.
Cụ thể, Bình Định tăng 6,8%; Bà Rịa – Vũng Tàu tăng 5%; Đắk Nông giảm 0,4%; Hà Tĩnh giảm 14,1%. Địa phương có chỉ số của ngành sản xuất và phân phối điện giảm hoặc tăng thấp: Bình Thuận giảm 3,2%; Quảng Ninh giảm 3,4%; Hà Tĩnh giảm 31,7%; Trà Vinh giảm 35%; Lạng Sơn tăng 5,7%. Địa phương có ngành khai khoáng giảm: Bình Định giảm 20,1%; Cà Mau giảm 13,6%; Đắk Nông giảm 1,7%; Ninh Bình giảm 8,5%; Hà Tĩnh giảm 3%.
Trong 11 tháng năm 2022, một số sản phẩm công nghiệp chủ lực tăng cao so với cùng kỳ năm trước là bia tăng 34,9%; thủy hải sản chế biến và ô tô cùng tăng 17,3%; linh kiện điện thoại tăng 16,9%; xăng dầu các loại tăng 12,9%; sơn hóa học tăng 12%; thép thanh, thép góc tăng 11,8%; xe máy tăng 10,8%; giày, dép da tăng 9,7%; thuốc lá điếu và khí đốt thiên nhiên dạng khí cùng tăng 9,1%.
Ngược lại, một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ năm trước, gồm: Ti vi giảm 0,6%; khí hóa lỏng LPG giảm 1,1%; vải dệt từ sợi nhân tạo giảm 1,7%; thức ăn cho thủy sản giảm 4,1% ; điện thoại di động giảm 6,1%; phân hỗn hợp NPK giảm 6,6%; sắt, thép thô giảm 16,6%.
Link bài gốc: https://www.nguoiduatin.vn/lo-dien-10-dia-phuong-co-toc-do-san-xuat-cong-nghiep-cao-nhat-nuoc-a583032.html