Phó Thủ tướng Lê Minh Khái mới ký quyết định về khung giá của mức giá bán lẻ điện bình quân. Theo đó, khung giá (chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng) tối thiểu mới là 1.826,22 đồng/kWh và tối đa là 2.444,09 đồng/kWh.
So với khung cũ được quy định tại Quyết định 34/2017, khung giá tối thiểu đã tăng 220 đồng/kWh (mức giá cũ là 1.606,19 đồng/kWh), tương đương 13,7%; trong khi khung giá bán lẻ điện bình quân tối đa tăng 538 đồng/kWh (mức giá cũ là 1.906,42 đồng/kWh), tương đương tăng 28,2%.
Liên quan đến việc tăng khung giá của mức giá bán lẻ điện bình quân vừa được ban hành, ông Trần Việt Hòa – Cục trưởng Cục Điều tiết điện lực (Bộ Công Thương) cho biết quyết định này dựa trên nhiều yếu tố.
Thứ nhất, khung giá của mức giá bán lẻ điện bình quân hiện tại không còn phù hợp với bối cảnh và chưa phản ánh sự biến động của các thông số đầu vào tới chi phí sản xuất kinh doanh điện, đặc biệt là biến động của giá nhiên liệu.
Bộ Công Thương nhận thấy cần thiết sửa đổi, bổ sung, thay thế Quyết định số 34 và đây là một trong những vấn đề cấp bách hiện nay.
Thứ hai, giá than nhập khẩu cung cấp cho các nhà máy điện đã bắt đầu tăng từ cuối năm 2021. Cụ thể, theo chỉ số giá than nhập NewCastle Index bình quân năm 2021 đạt 138 USD/tấn (giá than nhập tháng 1/2021 chỉ là 82 USD/tấn và các tháng năm 2020 đều dưới 54 USD/tấn).
Trên thực tế 10 tháng đầu năm năm 2022, giá than khoảng 359 USD/tấn và giữ ở mức cao cho đến thời điểm này, mặc dù giá than nhập khẩu tăng cao nhưng vẫn có khó khăn trong việc cung ứng than nhập khẩu cho phát điện.
Trong khi đó, sản lượng điện từ nhiệt điện than chiếm tỉ trọng khoảng 40% sản lượng điện của Việt Nam nên chi phí sản xuất kinh doanh điện của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) tăng cao.
Giá than nhập khẩu tăng không chỉ làm tăng mạnh chi phí mua điện từ các nhà máy nhiệt điện sử dụng than nhập mà còn làm tăng chi phí mua điện từ các nhà máy nhiệt điện sử dụng than pha trộn (trộn giữa than trong nước và than nhập).
Trong năm 2022, tính tới hết quý III, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam đã hai lần điều chỉnh tăng giá than trộn và một lần điều chỉnh giảm giá với tổng mức tăng từ khoảng 802.000 đồng/tấn đến 985.000 đồng/tấn tùy từng loại than, tương ứng với mức tăng chung so với đầu năm khoảng 52%.
Tổng Công ty Đông Bắc đã 4 lần điều chỉnh tăng giá than trộn và một lần điều chỉnh giảm giá với tổng mức tăng từ khoảng 804.000 đồng/tấn đến 986.000 đồng/tấn tuỳ từng loại than, tương ứng với mức tăng chung so với đầu năm khoảng 52%.
Ngoài ra, các khoản chênh lệch tỉ giá thực hiện trong hợp đồng mua bán điện của các năm 2019, 2020 cũng như của các năm 2021-2024 ước khoảng hơn 21.000 tỷ đồng cần được phân bổ, tính toán vào chi phí sản xuất điện hàng năm để tính toán khung giá.
Cục trưởng Cục Điều tiết điện lực cho rằng, với các bối cảnh nêu trên đã tạo nên sự biến động lớn về các thông số liên quan đến chi phí mua điện – chiếm khoảng trên 80% tổng chi phí sản xuất kinh doanh điện hàng năm của EVN.
“Tình hình khủng hoảng năng lượng hiện nay, tác động cộng hưởng của căng thẳng địa chính trị tại Châu Âu, biến động tỉ giá giữa đồng USD và nhiều đồng tiền khác, áp lực của lạm phát, gia tăng chi phí sản xuất kinh doanh trên toàn cầu đã tác động lớn đến việc tăng giá năng lượng tại nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam”, ông Hòa cho hay.
Link bài gốc: https://www.nguoiduatin.vn/bo-cong-thuong-ly-giai-viec-tang-khung-gia-ban-le-dien-binh-quan-a592629.html