Thực hiện Kế hoạch số 81/KH-UBTVQH15, ngày 5/11/2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về triển khai thực hiện Kết luận số 19-KL/TW của Bộ Chính trị về Đề án định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV, Hội Luật gia Việt Nam được giao nhiệm vụ xây dựng Báo cáo nghiên cứu, rà soát Luật Trọng tài thương mại.
Thực hiện nhiệm vụ trên, Hội Luật gia Việt Nam đã thành lập Ban Biên tập, ban hành Kế hoạch xây dựng báo cáo; tổ chức các hoạt động nghiên cứu, thu thập tài liệu; tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm.
Ngày 29/11, tại Tp.HCM, Hội Luật gia Việt Nam tổ chức Hội thảo Góp ý dự thảo Báo cáo nghiên cứu, rà soát Luật Trọng tài thương mại.
Tham dự Hội thảo, về phía Hội Luật gia Việt Nam có ông Nguyễn Văn Quyền – Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam chủ trì hội thảo; ông Trần Công Phàn, Phó Chủ tịch, Tổng thư ký Hội Luật gia Việt Nam.
Tham dự hội thảo còn có đại diện Trung tâm trọng tài thương mại Luật gia Việt Nam; đại diện lãnh đạo Trung tâm trọng tài quốc tế tại Tp.HCM; Trung tâm tư vấn pháp luật tại Tp.HCM; Đại học Kinh tế – Luật, ĐHQG Tp.HCM; Sở Tư pháp Tp.HCM; Tòa án nhân dân Tp. HCM; Tòa án nhân dân cấp cao tại Tp.HCM; Viện kiểm sát nhân dân Tp.HCM; Cục Thi hành án dân sự Tp.HCM; Trung tâm trọng tài Thương nhân Việt Nam; Trung tâm trọng tài thương mại Tài chính FCCA; Tạp chí Đời sống và pháp luật; Công ty TNHH nluật Việt Minh Á Châu và một số trọng tài viên tại các trung tâm trọng tài.
Mở ra những thông thoáng về cơ chế
Phát biểu khai mạc hội thảo, ông Nguyễn Văn Quyền, Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam cho biết, chủ trương khuyến khích việc giải quyết các tranh chấp thông qua thương lượng hòa giải bằng trọng tài được ghi nhận trong rất nhiều văn bản của Đảng và Nhà nước.
Đặc biệt tại Nghị quyết 49 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, đây là chủ trương rất quan trọng, nhằm mở rộng các hình thức giải quyết các tranh chấp trong các hoạt động kinh doanh thương mại và các quan hệ khác thông qua các hoạt động trọng tài. Theo Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam, khi thực hiện Nghị quyết 49, giới luật gia rất chú trọng vấn đề này, bởi giải quyết những tranh chấp thông qua tư pháp, tòa án rất quan trọng nhưng giải quyết bằng trọng tài, hòa giải thương lượng tạo ra cơ chế rất hay cho doanh nghiệp để hoạt động.
“Thực hiện chủ trương này góp phần cho vấn đề phát triển kinh tế, mở ra những thông thoáng về cơ chế để cho các doanh nghiệp hoạt động tốt hơn, góp phần phát triển kinh tế xã hội”, Chủ tịch Nguyễn Văn Quyền nhấn mạnh.
Với tinh thần đó, Quốc hội khóa XII đã giao cho Hội Luật gia Việt Nam chuẩn bị dự án Luật TTTM để xây dựng dự án luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức cho chủ trương trên. Thực hiện nhiệm vụ của Quốc hội khóa XII giao, Hội Luật gia Việt Nam đã chuẩn bị đề án dự án Luật TTTM, tháng 6/2010 Quốc hội đã thông qua Luật này. Thay thế cho pháp lệnh năm 2003, giải quyết nhiều điểm nghẽn của cơ sở pháp lý cho hoạt động trọng tài.
Chủ tịch Nguyễn Văn Quyền cho biết, trong quá trình làm Luật TTTM, Hội Luật gia đã tranh thủ nhiều ý kiến của các chuyên gia pháp lý, các cơ quan tư pháp. Vì vậy, khi Quốc hội thông qua đều có sự nhất trí rất cao. Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam đánh giá, sau 12 năm thi hành Luật TTTM, đã thu được nhiều kết quả tích cực, hệ thống tổ chức trọng tài thương mại được xây dựng, phát triển rất rộng rãi. Đặc biệt, đội ngũ trọng tài viên hiện nay rất đông đảo, đồng thời kỳ vọng vào giải quyết các tranh chấp có yếu tố nước ngoài.
“Chúng tôi cho rằng, Luật TTTM năm 2010 có nhiều điểm mới và tháo gỡ được những điểm nghẽn trong hoạt động trọng tài. Tuy nhiên, việc thực hiện Luật này đã được 12 năm, nhưng còn một số tồn tại trong quy luật phát triển”, Chủ tịch Nguyễn Văn Quyền nhấn mạnh.
Vì vậy, thực hiện Kế hoạch số 81/KH-UBTVQH15, ngày 5/11/2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về triển khai thực hiện Kết luận số 19-KL/TW của Bộ Chính trị về Đề án định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV, Hội Luật gia Việt Nam được giao nhiệm vụ xây dựng Báo cáo nghiên cứu, rà soát Luật Trọng tài thương mại.
Trên cơ sở đó, chúng ta có sự bổ sung, hoàn thiện để hệ thống pháp luật tốt hơn, tạo cơ sở pháp lý để thực hiện chủ trương tăng cường, mở rộng hoạt động trọng tài cũng như thương lượng trong quá trình giải quyết những tranh chấp trong hoạt động kinh doanh. Theo Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam, từ nhiệm vụ này, Hội đã thành lập Ban biên tập, xây dựng kế hoạch xây dựng báo cáo, tổ chức nhiều hoạt động thu thập, nghiên cứu tài liệu, khảo sát, tổ chức hội thảo, tọa đàm… chú trọng đến các trọng tài viên, trung tâm trọng tài, các cơ quan trong khối tư pháp, tòa án, kiểm soát… trên cơ sở đó đã xây dựng dự thảo báo cáo kết quả rà soát Luật này. Qua rà soát, chúng ta đều thống nhất đánh giá Luật TTTM năm 2010 có hiệu lực từ tháng 1/2011 có nhiều điểm mới, tạo cơ sở pháp lý rất quan trọng trong hoạt động trọng tài thương mại. Đồng thời, hỗ trợ cho các cơ quan tư pháp, tòa án trong việc giảm bớt những vụ việc giải quyết những tranh chấp trong hoạt động kinh doanh, phát triển sản xuất kinh doanh tốt hơn. Từ những kết quả đó, Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam tiếp tục đề nghị các đại biểu, các trọng tài viên tại hội thảo tham gia có những ý kiến để rà soát, đề xuất giải pháp tháo gỡ những vấn đề còn tồn tại của Luật TTTM…
Hơn 2900 vụ tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài thương mại trong 10 năm
Thay mặt Hội Luật gia Việt Nam – cơ quan chủ trì soạn thảo, ông Nguyễn Văn Huệ – Trưởng Ban Nghiên cứu, xây dựng và phổ biến pháp luật, Hội Luật gia Việt Nam đã trình bày Báo cáo nghiên cứu, rà soát Luật Trọng tài thương mại.
Báo cáo chỉ rõ, ngay sau khi Luật TTTM có hiệu lực ngày 1/1/2011, các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật TTTM đã được Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân Tối cao, Hội Luật gia Việt Nam và các cơ quan, tổ chức hữu quan tích cực, chủ động phối hợp chặt chẽ ban hành kịp thời, đảm bảo tiến độ và chất lượng. Bên cạnh đó, để bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật Việt Nam, Quốc hội cũng đã sửa đổi, bổ sung chế định về trọng tài thương mại trong nhiều đạo luật như: Bộ luật Dân sự 2015, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Luật Đầu tư 2014, Luật thương mại hợp nhất số 03/VBHN-VPQH, Luật Xây dựng 2014,…
Trong khuôn khổ của Luật TTTM hơn 12 năm qua, số lượng trung tâm trọng tài và trọng tài viên ở nước ta đã có sự phát triển mạnh mẽ, phần nào đáp ứng tốt các yêu cầu của trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trong giai đoạn hiện nay. Theo đó, tính đến 30/6/2022, cả nước đã có 42 Trung tâm trọng tài thương mại và 01 văn phòng đại diện của Ủy ban trọng tài thương mại Hàn Quốc. Toàn quốc đã có khoảng 700 trọng tài viên, trong đó có một số trọng tài viên là người nước ngoài. Về kết quả giải quyết, trong 10 năm (từ 2011-2020) các Trung tâm trọng tài đã giải quyết được 2900 vụ tranh chấp. Không những số lượng vụ việc trọng tài thụ lý tăng lên mà các lĩnh vực tranh chấp ngày càng đa dạng, phong phú hơn. Đánh giá chung về kết quả thực hiện, ông Nguyễn Văn Huệ chỉ rõ Luật TTTM đã tiếp thu các nguyên tắc quan trọng của Luật Mẫu về trọng tài của UNCITRAL, tạo ra một khuôn khổ tương đối thuận lợi cho sự phát triển của phương thức trọng tài.
Luật TTTM tôn trọng quyền tự do thỏa thuận của các bên, đây là nguyên tắc cơ bản của phương thức trọng tài. Luật cũng đã quy định rõ về vai trò của Tòa án trong hỗ trợ và giám sát đối với hoạt động trọng tài; Xác lập nguyên tắc mất quyền phản đối; Mở rộng thẩm quyền cho hội đồng trọng tài, giúp quá trình tố tụng hiệu quả hơn. Bên cạnh kết quả đạt được, sau hơn 12 năm thực thi, Luật Trọng tài thương mại đã phát sinh một số tồn tại, bất cập cần sửa đổi để đáp ứng nhu cầu thực tiễn và thống nhất với các đạo luật khác.
Theo đó, một số vấn đề liên quan đến thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của Trọng tài thương mại; Thỏa thuận trọng tài; Quyền và nghĩa vụ của Trọng tài viên; Các hình thức Trọng tài; Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài và cơ chế trọng tài viên khẩn cấp (emergency arbitrator); Quy định về nội dung Phán quyết trọng tài; Hủy phán quyết trọng tài; Giải quyết khiếu nại về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; Điều kiện thành lập Trung tâm trọng tài; Quy định về quyền miễn trừ trách nhiệm và phạm vi trách nhiệm của Hội đồng Trọng tài; Cơ chế giám đốc thẩm đối với quyết định của tòa án về việc hủy phán quyết trọng tài; Mất quyền phản đối; Về thi hành phán quyết trọng tài; Về thời hiệu khởi kiện và một số vấn đề khác.
Trên cơ sở đánh giá hơn 12 năm thực thi Luật Trọng tài thương mại, Báo cáo một lần nữa nhấn mạnh việc hoàn thiện thể chế về trọng tài thương mại và pháp luật liên quan đảm bảo trọng tài thực sự là thiết chế hiệu quả đáp ứng nhu cầu thực tiễn giải quyết tranh chấp đầu tư, kinh doanh, thương mại, đảm bảo phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của Việt Nam, Luật mẫu UNCITRAL và thông lệ quốc tế về trọng tài thương mại.
Bên cạnh đó, cần hướng đến xây dựng, ban hành cơ chế tăng cường sự kiểm tra, giám sát việc triển khai thi hành quy định của Luật trọng tài thương mại, đặc biệt là việc hủy phán quyết trọng tài; Xây dựng cơ chế phối hợp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thi hành phán quyết trọng tài;
Nâng cao năng lực của các Trung tâm trọng tài, đội ngũ trọng tài viên đáp ứng yêu cầu giải quyết tranh chấp đầu tư, kinh doanh, thương mại trong bối cảnh hội nhập quốc tế, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và doanh nghiệp; Xây dựng cơ chế nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của trọng tài thương mại. Về lộ trình thực hiện, Hội Luật gia Việt Nam sẽ là cơ quan chủ trì xây dựng Báo cáo nghiên cứu, rà soát Luật TTTM trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội trước 31/12/2022. Xây dựng hồ sơ đề nghị xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Trọng tài thương mại.
Dự kiến sẽ hoàn thành vào tháng 12/2023. Việc xây dựng hồ sơ dự án án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Trọng tài thương mại trình Quốc hội cho ý kiến vào kỳ họp thứ 7 khóa XV (tháng 5/2024). Trình Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Trọng tài thương mại vào kỳ họp thứ 8 khóa XV (tháng 10/2024).
Ngoài ra, Báo cáo cũng chỉ rõ song song với việc xây dựng hồ sơ dự án án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Trọng tài thương mại cũng cần nghiên cứu hoàn thiện quy định luật khác liên quan Luật Trọng tài thương mại như nghiên cứu, bổ sung quy định về giám đốc thẩm quyết định của Tòa án hủy hoặc không hủy phán quyết trọng tài trong Bộ luật Tố tụng dân sự; Sửa Luật thi hành án dân sự theo hướng bổ sung quy định về thủ tục thi hành phán quyết của TTTM; Hoàn thiện các văn bản dưới luật đảm bảo thi hành Luật Trọng tài thương mại.
Ths. Nguyễn Thị Thùy Dung – Phó Chánh án Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh: Cần chuẩn hóa trình độ của Trọng tài viên
Phát biểu tham luận góp ý, Ths. Nguyễn Thị Thùy Dung – Phó Chánh án Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh khẳng định Luật TTTM đã góp phần thúc đẩy hoạt động trọng tài phát triển và nhận được sự quan tâm, đón nhận lớn từ cộng đồng. Thông tin đến các đại biểu, bà Nguyễn Thị Thuỳ Dung cho biết, từ ngày 1/1/2011 đến 30/9/2022, Tòa án nhân dân (TAND) Tp. Hồ Chí Minh đã giải quyết 13 vụ việc xem xét khiếu nại và giải quyết khiếu nại quyết định của Hội đồng trọng tài về thẩm quyền; 11 vụ việc thu thập chứng cứ, 27 vụ việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; 4 vụ việc đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc. Đáng chú ý, TAND Tp. Hồ Chí Minh cũng đã xử lý 217 vụ việc liên quan đến yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài.
Từ thực tế giải quyết các loại việc liên quan đến hoạt động trọng tài, bà Dung đã chỉ ra 10 nội dung vướng mắc, bất cập trong quá trình triển khai và thực hiện Luật TTTM. Đầu tiên, Phó Chánh án TAND Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng phạm vi điều chỉnh của Luật TTTM chưa được quy định rõ ràng. Từ nội dung quy định tại Điều 1 Luật TTTM dẫn tới thực tế có 2 quan điểm nhận thức khác nhau về phạm vi điều chỉnh của Luật gây khó khăn cho việc xác định thẩm quyền của trọng tài.
Cụ thể, quan điểm thứ nhất, Luật TTTM chỉ áp dụng đối với các quyết định của Trọng tài trong nước. Quan điểm thứ hai, Luật này cũng có thể được áp dụng cả đối với các quyết định của Trọng tài nước ngoài trong quá trình giải quyết tranh chấp nếu quyết định được tuyên tại Việt Nam hoặc địa điểm giải quyết vụ tranh chấp tại Việt Nam.
Theo bà Dung: “Nếu theo Luật mẫu và Công ước New York 1958 thì theo quan điểm tôi, phạm vi điều chỉnh nên thiết kế theo hướng mở rộng phạm vi về thẩm quyền”. Tiếp đó, bà Nguyễn Thị Thuỳ Dung đã góp ý đến ngôn ngữ tố tụng trọng tài.
Trên thực tế trung tâm trọng tài có bổ sung thêm nội dung “hội đồng trọng tài quyết định có tính đến yếu tố của hợp đồng”. Việc bổ sung này rất đúng đắn và hợp lý bởi ngôn ngữ được sử dụng hợp đồng cũng như quá trình thực hiện hợp đồng là chứng cứ cực kỳ quan trọng trong quá trình tố tụng trọng tài.
Về gửi thông báo và trình tự gửi thông báo, bà Nguyễn Thị Thuỳ Dung chia sẻ: “Từ thực tế giải quyết các yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, bên yêu cầu cho rằng, trong quá trình tố tụng trọng tài họ không nhận được văn bản tố tụng của trọng tài vì công ty không còn hoạt động tại địa chỉ đăng ký. Chúng tôi có kiểm tra hồ sơ thì đúng là hội đồng trọng tài gửi các thông báo đến các trụ sở công ty nhưng do công ty không còn hoạt động tại địa chỉ đó dẫn đến việc họ không nhận được thông báo từ hội đồng trọng tài”.
Trong khi đó, Luật Tố tụng dân sự 2015 quy định cực kỳ chặt chẽ việc tống đạt cho đương sự từ tống đạt trực tiếp, tống đạt cho người thứ ba, niêm yết tại địa phương và thông báo trên báo đài. Từ đó, bà Dung cho rằng thủ tục trọng tài cần quy định chặt chẽ hơn việc gửi thông báo hoặc xác minh địa chỉ để đảm bảo quyền tố tụng của các đương sự.
Về tiêu chuẩn trọng tài viên, bà Dung kiến nghị cần chuẩn hóa trình độ của Trọng tài viên, tối thiểu là cử nhân luật và phải trải qua các lớp nghiệp vụ về Trọng tài. Do đó, tiêu chuẩn Trọng tài viên cần được quy định chặt chẽ, chuẩn hoá hơn theo tiêu chuẩn được quy định tại điều 20 Luật TTTM.
Liên quan đến quyền và nghĩa vụ của Trọng tài viên, Phó Chánh án Toà án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh cho rằng cần bổ sung chế tài đối với trọng tài viên trong trường hợp họ cố ý ban hành phán quyết không đúng quy định pháp luật. Báo cáo về căn cứ hủy phán quyết trọng tài, Ths. Dung cho biết mặc dù đã có quy định liên quan đến giải thích phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Tuy nhiên, cách giải thích không thực sự rõ ràng, còn mang tính chung chung nên dễ dẫn đến tình trạng có nhiều cách hiểu khác nhau và áp dụng khác nhau bởi tranh chấp trong lĩnh vực kinh doanh thương mại có phạm vi rộng, liên quan đến nhiều hệ thống văn bản pháp luật khác nhau, như: Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Chứng khoán,… thì sẽ rất khó cho việc xác định đâu là nguyên tắc cơ bản và đâu là nguyên tắc không cơ bản.
Do đó, bà Dung cho rằng cần quy định dễ hiểu hơn, cụ thể hơn về các nguyên tắc cơ bản của luật pháp Việt Nam.
Về quy định thời hiệu thi hành, bà Thuỳ Dung chỉ ra thực tế vướng mắc khi cơ quan thi hành án thường có văn bản hỏi Tòa án liên quan đến thông tin yêu cầu hủy phán quyết trọng tài không. Tuy nhiên, tòa án không có quy định nào trả lời những dạng văn bản này, dẫn đến mất thời gian của bên được thi hành. Từ đó, Phó Chánh án TAND Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị bỏ quy định này, bên phải thi hành phải chứng minh tại cơ quan thi hành án là nộp đơn đề nghị hủy phán quyết trọng tài…
Bà Mai Thị Tuyết Hạnh, Phó Trưởng Phòng Bổ trợ tư pháp, Sở Tư pháp Tp.HCM: Cần cơ chế phối hợp để quản lý, thi hành đạt hiệu quả
Bà Mai Thị Tuyết Hạnh, Phó Trưởng Phòng Bổ trợ tư pháp, Sở Tư pháp Tp.HCM đã nêu ý kiến về hoạt động trọng tài thương mại qua công tác quản lý Nhà nước. Đại diện Sở Tư Pháp Tp.HCM cơ bản đồng ý báo cáo nghiên cứu, rà soát luật Trọng tài Thương mại của Hội Luật gia Việt Nam.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, việc xảy ra các tranh chấp thương mại là điều không thể tránh khỏi. Hiện nay có nhiều phương pháp giải quyết tranh chấp thương mại nhưng phương pháp giải quyết tranh chấp bằng hình thức trọng tài thương mại đang được quan tâm và lựa chọn trên trường quốc tế.
Vì việc giải quyết tranh chấp có trình tự thủ tục nhanh gọn, không làm tiết lộ bí mật kinh doanh, uy tín của các bên và đảm bảo quy định pháp luật. “Luật Trọng tài thương mại năm 2010 ra đời đã tạo cơ chế pháp lý tốt hơn cho hoạt động trọng tài thương mại, giúp cho công tác quản lý nhà nước trên địa bàn Tp.HCM được thống nhất, đúng quy định. Chúng tôi cũng ghi nhận, Luật TTTM đã giúp cho các tổ chức trọng tài thương mại và trọng tài viên có cơ sở thuận lợi để triển khai thực hiện công việc của mình; góp phần đưa hoạt động trọng tài trên địa bàn Tp.HCM ngày càng hiệu quả hơn”, bà Hạnh chia sẻ.
Ghi nhận qua công tác quản lý, Sở Tư pháp Tp.HCM đang quản lý, hỗ trợ hoạt động của 22 trung tâm trọng tài và 3 chi nhánh trên địa bàn. Nhìn chung, các trọng tài viên có trình độ chuyên môn của các tổ chức trọng tài thương mại chiếm tỷ lệ tương đối lớn.
Một số trọng tài viên là những cán bộ, công chức có nhiều năm công tác trong các lĩnh vực pháp luật, quản lý hành chính. Nhiều trọng tài viên là giảng viên các trường luật, khoa luật và là luật sư. Do vậy, các trọng tài viên tiếp nhận, giải quyết một cách hiệu quả đối với các tranh chấp, phát huy tối đa các ưu điểm của phương thức giải quyết tranh chấp bằng con đường trọng tài.
Bà Hạnh chỉ ra, tuy nhiên, với nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan nên hiệu quả hoạt động của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại tại các trung tâm trọng tài vẫn chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu hiện nay.
Vì thế, số lượng tranh chấp thương mại được giải quyết bằng trọng tài còn thấp. Chiếm chưa đến 1% số lượng các tranh chấp thương mại được giải quyết tại tòa án. Trong khi đó, việc giải quyết tranh chấp tại tòa án luôn ở tình trạng quá tải, dẫn đến tăng lượng vụ án tồn đọng.
Nguyên nhân, một phần xuất phát từ việc thực tế có nhiều hoạt động phát sinh cần phải điều chỉnh cho phù hợp trong khi Luật Trọng tài thương mại năm 2010 chưa được điều chỉnh kịp thời, phát sinh mâu thuẫn với quy định pháp luật khác và tình hình thực tiễn. Cần cơ chế phối hợp để quản lý, thi hành đạt hiệu quả.
Lãnh đạo Phòng Bổ trợ tư pháp, Sở Tư pháp Tp.HCM góp ý, Luật TTTM cần bổ sung Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã để hoàn thiện, chặt chẽ hơn. Về khái niệm hoạt động thương mại, hiện nay pháp luật về trọng tài thương mại và hòa giải thương mại chưa định nghĩa hoạt động này.
Trong khi khái niệm này chỉ được định nghĩa trong Luật Thương mại năm 2005 mà việc hiểu và định nghĩa về tranh chấp kinh doanh thương mại chưa đồng nhất giữa Luật này và Bộ luật Dân sự năm 2015. Bà Mai Thị Tuyết Hạnh cũng đánh giá: “Sở Tư pháp Tp.HCM nhận thấy, chưa có cơ chế phối hợp giữa tòa án, cơ quan thi hành án và cơ quan tư pháp để hỗ trợ hoạt động TTTM. Việc thi hành án TTTM chưa thuận lợi như thi hành án dân sự.
Bản án dân sự có thể do cơ quan thi hành án cấp huyện hoặc thừa phát lại giải quyết nhưng phán quyết TTTM phải do Cục Thi hành án cấp tỉnh thực hiện nên tạo nên áp lực cho đơn vị này”. Công tác quản lý Nhà nước trên địa bàn Tp.HCM còn cho thấy vướng mắc về giấy đăng ký hoạt động của TTTM khi tổ chức này thay đổi địa điểm hoạt động.
“Trường hợp thay đổi địa điểm hoạt động TTTM sang tỉnh thành khác, theo quy định hiện hành, TTTM có trách nhiệm thông báo cho Sở Tư pháp nơi đăng ký hoạt động được biết khi tổ chức này đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp địa phương chuyển về. Từ đây phát sinh vấn đề về việc xử lý giấy đăng ký hoạt động tại địa phương cũ, nơi đã cấp”, bà Hạnh cho biết.
Cụ thể hơn, vì không có quy định khi chuyển địa điểm hoạt động thì TTTM phải thực hiện nghĩa vụ với địa phương cũ như thuế, lao động khi địa phương mới đã cấp giấy đăng ký hoạt động mới thì sẽ tồn tại cùng lúc 2 giấy đăng ký hoạt động. Bên cạnh đó, Điều 15 Luật TTTM quy định: “Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về Trọng tài. Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giúp Bộ Tư pháp thực hiện một số nhiệm vụ theo quy định của Chính phủ và quy định tại Luật này”.
Theo bà Hạnh, Sở Tư pháp bên cạnh là cơ quan chuyên môn của Bộ tư pháp thì còn là cơ quan tham mưu, giúp việc UBND cấp tỉnh. Do đó, bà Hạnh đề nghị Luật TTTM nghiên cứu, bổ sung vai trò của UBND cấp tỉnh phối hợp với Bộ Tư pháp thực hiện hiệu quả công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động TTTM để Sở Tư pháp có điều kiện hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình
Luật sư Nguyễn Văn Hậu – Chủ tịch Hội Trọng tài thương mại Tp.HCM
Qua nghiên cứu, luật sư Nguyễn Văn Hậu cho rằng nội dung báo cáo rà soát phản ánh tương đối đầy đủ những kết quả cũng như những hạn chế, bất cập của Luật Trọng tài thương mại (TTTM) trong quá trình áp dụng vào thực tế. Đối với 15 vấn đề mà báo cáo đã nêu, luật sư Nguyễn Văn Hậu đa số đồng tình. Luật sư cũng đề nghị bổ sung một nội dung như: Quyền và nghĩa vụ của Trọng tài viên; việc hủy phán quyết của trọng tài; Hình thức tổ chức của Trọng tài ở Việt Nam: Điều kiện thành lập Trung tâm trọng tài; Trách nhiệm bồi thường của trọng tài viên trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Ngoài các vấn đề trên, luật sư Hậu cũng kiến nghị thêm 5 vấn đề mà dự thảo chưa nêu gồm: Vấn đề kiểm sát việc hủy phán quyết trọng tài; Vấn đề thủ tục giải quyết tranh chấp; Vấn đề thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài; Về thời điểm cuối cùng các bên tranh chấp được nộp hồ sơ, tài liệu; Vấn đề thi hành phán quyết trọng tài. Đối với vấn đề kiểm sát việc hủy phán quyết của trọng tài, luật sư Nguyễn Văn Hậu cho rằng pháp luật hiện nay vẫn chưa có quy định để giải quyết đối với trường hợp ý kiến từ phía Viện kiểm sát tại phiên họp xem xét hủy phán quyết của trọng tài thương mại do Tòa án tổ chức.
Thiếu sót này sẽ dẫn đến việc chưa phát huy được vai trò của Viện kiểm sát trong việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án khi giải quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động trọng tài thương mại. Do đó, cần nghiên cứu, bổ sung quy định cho phép Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp được quyền kiến nghị lên Viện trưởng Viện kiểm sát cấp cao xem xét kháng nghị theo thủ tục Giám đốc thẩm đối với quyết định hủy phán quyết của trọng tài nếu có căn cứ chứng minh rằng việc hủy phán quyết trọng tài không đúng với quy định của pháp luật. Đối với thủ tục giải quyết tranh chấp, luật sư Nguyễn Văn Hậu cho rằng thực tế giải quyết tranh chấp còn có đối tượng người thứ ba muốn tham gia để bảo đảm quyền lợi của mình cho dù họ không phải là nguyên đơn hay bị đơn.
Nhằm đáp ứng thực tế này, Luật TTTM cần bổ sung các quy định về người thứ ba tham gia tố tụng tương tự như Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 khi quy định về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Về thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, luật TTTM chưa có quy định cụ thể để giải quyết trường hợp một trong các bên tranh chấp đưa ra được căn cứ chứng minh đã hết thời hiệu khởi kiện và yêu cầu Hội đồng trọng tài hoặc Trọng tài viên duy nhất xem xét thời hiệu khởi kiện. Trường hợp thực hiện tố tụng theo thủ tục tố tụng thì việc hết thời hiệu là một căn cứ để Tòa án đưa ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Tuy nhiên, điều 59 luật TTTM lại không quy định việc hết thời hiệu khởi kiện là một căn cứ để Hội đồng trọng tài ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ tranh chấp. Luật sư Hậu cho rằng đây là một thiếu sót cần được bổ sung để hoàn thiện. Về thời điểm cuối cùng các bên tranh chấp được nộp hồ sơ, tài liệu, hiện nay Luật TTTM chưa có quy định về thời điểm này. Trong khi đó, thực tiễn cho thấy có nhiều phiên họp giải quyết tranh chấp đã bị hoãn vì một bên nộp tài liệu, chứng cứ mang tính bước ngoặt, thay đổi toàn bộ nội dung giải quyết tranh chấp ngay tại phiên họp.
Vì vậy, cần bổ sung Luật TTTM theo hướng xác định rõ thời điểm các bên phải cung cấp tài liệu, chứng cứ là trước thời điểm mở phiên họp giải quyết tranh chấp để đảm bảo tính công bằng cho các bên tham gia tố tụng cũng như tạo điều kiện cho Hội đồng trọng tài thực hiện hoạt động tài phán một cách hiệu quả. Cuối cùng, một trong những hạn chế trong công tác thi hành các phán quyết trọng tài đó là việc khó xác nhận tình trạng pháp lý của phán quyết. Hiện nay, việc xác định trình trạng pháp lý của phán quyết trọng tài là trách nhiệm của cơ quan thi hành án dân sự hay đương sự còn chưa rõ dẫn tới khó khăn trong công tác thụ lý thi hành án. Do đó, cần hoàn thiện quy định cụ thể về trách nhiệm xác định tình trạng pháp lý của phán quyết trọng tài.
Quy hoạch hoạt động trọng tài gắn liền với dự báo phát triển KT-XH
Ông Huỳnh Đăng Hiếu – Phó Trưởng phòng Ban Thư ký Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) cho rằng sự phát triển hoạt động tố tụng trọng tài trong giai đoạn tiếp theo phải gắn liền với dự báo phát triển kinh tế, xã hội của đất nước và bắt kịp với xu hướng phát triển của hoạt động trọng tài quốc tế. Do đó, sự thành lập và phát triển của các tổ chức trọng tài cũng phải được quy hoạch và quản lý một cách hiệu quả, tránh tình trạng chất lượng không đi đôi với số lượng, gây ảnh hưởng đến uy tín của hoạt động tố tụng trọng tài nói chung. Để làm được điều này, các cơ quan hoạch định chính sách và cơ quan quản lý cần có quy hoạch và định hướng đối với việc hoạt động của các trung tâm trọng tài. Việc quản lý các tổ chức trọng tài có thể tham khảo kinh nghiệm từ các quốc gia có nền trọng tài phát triển như Anh, Hồng Kông, Singapore,…
Về nội dung cụ thể của Luật TTTM, đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài liên quan đến quyền đối với tài sản là bất động sản tại Việt Nam, đại diện VIAC nhấn mạnh quan điểm “không phải nhằm phân biệt thẩm quyền giữa Tòa án và Trọng tài ở trong nước”. Do đó, để khắc phục sự giải thích, áp dụng khác nhau như trong thực tế thời gian qua, tạo sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật trong tương lai, ông Huỳnh Đăng Hiếu đề xuất cách hiểu đó cần được luật hóa và có giá trị áp dụng rõ ràng.
Ở khía cạnh nội dung phán quyết trọng tài, đại diện VIAC cho rằng việc công khai thông tin địa chỉ của trọng tài viên vào phán quyết trọng tài là không cần thiết, thậm chí có thể tạo điều kiện cho các Bên gây ảnh hưởng đến sự vô tư, độc lập, khách quan của Trọng tài viên. Do đó, chuyên gia này đề xuất bỏ nội dung về địa chỉ của trọng tài viên trong phán quyết trọng tài để phù hợp hơn với thực tiễn và tiệm cận với pháp luật trọng tài quốc tế. Ngoài ra, theo Hiếu, hiện nay Luật Trọng tài thương mại chỉ quy định về việc phán quyết trọng tài được biểu quyết theo đa số, trường hợp biểu quyết không đạt được đa số thì phán quyết trọng tài được lập theo ý kiến của Chủ tịch Hội đồng trọng tài; nhưng không đề cập đến trường hợp Trọng tài viên bảo lưu quan điểm. “Ý kiến bảo lưu của Trọng tài viên có nên được ghi vào phán quyết hay không? Và trong trường hợp ý kiến bảo lưu của Trọng tài viên được ghi vào phán quyết thì việc này có vi phạm thủ tục tố tụng hay không, do vấn đề này không được quy định trong nội dung phán quyết?”, ông Hiếu đặt câu hỏi.
Bên cạnh đó, nguyên tắc biểu quyết theo đa số cũng được áp dụng ở quy trình tố tụng của Tòa án, tuy nhiên việc bảo lưu ý kiến của các thành viên trong Hội đồng xét xử cũng không được nêu trong bản án. Trên thực tế, nhiều Trọng tài viên bảo lưu ý kiến và đề nghị ý kiến bảo lưu phải được ghi nhận vào phán quyết, sau đó lại có Trọng tài viên phản bác ý kiến bảo lưu ngay bên dưới, dẫn đến việc Hội đồng Trọng tài tranh luận ngay tại Phán quyết Trọng tài.
Do đó, đại diện VIAC vấn đề này cần phải được nghiên cứu sâu hơn để tạo sự thống nhất trong hoạt động tố tụng, đặc biệt là đối với phán quyết trọng tài – kết quả quan trọng nhất của cả quá trình tố tụng. Về việc xem xét lại quyết định của Tòa án về việc hủy Phán quyết Trọng tài, ông Huỳnh Đăng Hiếu cần có một cơ chế để xem xét lại quyết định về việc hủy/không hủy phán quyết trọng tài của Tòa án, hạn chế trường hợp quyết định hủy thiếu căn cứ pháp lý, gây tranh cãi và ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của các bên trong tranh chấp.
Cùng với vấn đề xem xét lại quyết định của Tòa án, vấn đề tạm hoãn thi hành đối với quyết định này cũng cần được đặt ra. Đối với hoạt động thi hành án, ông Hiếu cho rằng hiện nay còn tồn tại một số vướng mắc hiện nay trong việc thi hành phán quyết trọng tài, dẫn đến việc không thể thi hành, tồn đọng, tạo bức xúc của xã hội lên cơ quan thi hành án dân sự.
Trong đó, nguyên nhân chủ yếu đến từ việc quyết định của Hội đồng Trọng tài tuyên có nội dung chưa rõ ràng. Liên quan tới việc giải thích phán quyết trọng tài, đại diện VIAC đặt vấn đề trường hợp Hội đồng Trọng tài có thành viên không còn là Trọng tài viên hoặc đã chết; Trung tâm trọng tài đã chấm dứt, giải thể thì việc giải thích Phán quyết trọng tài sẽ do ai thực hiện? “Bộ luật Tố tụng Dân sự đã có quy định trong cơ chế giải thích bản án của Tòa án như sau: “Thẩm phán đã ra quyết định hoặc Thẩm phán là chủ tọa phiên tòa có trách nhiệm giải thích, sửa chữa những điểm chưa rõ trong bản án, quyết định của Tòa án.
Trường hợp họ không còn là Thẩm phán của Tòa án thì Chánh án Tòa án đó có trách nhiệm giải thích, sửa chữa bản án, quyết định của Tòa án”. Tuy nhiên, vấn đề này vẫn còn đang bị bỏ ngỏ trong Luật Trọng tài thương mại, đồng thời cũng không thể áp dụng tương tự như Bộ luật Tố tụng Dân sự do cơ chế tổ chức của tòa án và trọng tài là khác nhau. Do đó, chúng tôi đề xuất bổ sung vấn đề này vào Dự thảo để có cơ sở thảo luận và tìm ra giải pháp hoàn thiện Luật Trọng tài thương mại trong tương lai”, ông Huỳnh Đăng Hiếu nói.
Luật Trọng tài thương mại, được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 17/6/2010, có hiệu lực ngày 01/01/2011 (sau đây viết tắt là Luật TTTM), thay thế Pháp lệnh Trọng tài thương mại số 08/2003/PL-UBTVQH11.
Với trách nhiệm là cơ quan chủ trì soạn thảo Luật TTTM, Hội Luật gia Việt Nam đã chủ động, tích cực tổ chức các hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật về trọng tài thương mại tới cán bộ, công chức, cộng đồng doanh nghiệp và người dân.
Luật TTTM đã quán triệt tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đó là “Khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài; tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó”.
Theo đó, Luật TTTM đã khắc phục được các bất cập của Pháp lệnh TTTM 2003, tiếp thu các tiêu chuẩn và thực tiễn pháp luật trọng tài quốc tế, thúc đẩy trọng tài trở thành một phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả.
Hoàng Bích – Mạnh Quốc – Phương Anh – Thành Nhân – An Bình
Ảnh: Hữu Thắng
Link bài gốc: https://www.nguoiduatin.vn/gop-y-du-thao-bao-cao-nghien-cuu-ra-soat-luat-trong-tai-thuong-mai-a582964.html