Theo nội dung cáo trạng, khoảng 20h ngày 15/8/2021, Công an huyện Thủy Nguyên (Tp.Hải Phòng) nhận được tin báo của quần chúng về việc hộ gia đình ông Nguyễn Văn Hải (SN 1966, trú tại thôn 3, xã Kiền Bái, huyện Thủy Nguyên) bị cháy.
Sau khi đám cháy được dập tắt, lực lượng chức năng đã phát hiện 4 người tử vong gồm anh V.C.K., SN 1990, trú tại thôn 7, xã Minh Tân, huyện Thủy Nguyên (con rể ông Hải); bà N.T.T., SN 1971 (vợ ông Hải); chị N.T.H., SN 1990 (con gái ông Hải) và cháu V.T.T.N., SN 2017 (cháu ngoại ông Hải). Bản thân ông Hải cũng bị bỏng và được người dân đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa huyện Thủy Nguyên.
Ngày 16/8/2021, ông Nguyễn Văn Hải đến công an huyện đầu thú. Tại cơ quan công an, ông Hải khai nhận, tối 15/8/2021, trong khi cùng ăn cơm với gia đình, giữa ông Hải và con gái là chị N.T.H xảy ra mâu thuẫn về việc cho cháu N. về nhà ông bà nội ăn rằm tháng 7.
Do bực tức về việc con gái hỗn láo, ông Hải đi mua 15 lít xăng về hất vào phòng ngủ của chị H., khi đó trong phòng ngủ có vợ chồng chị H. cùng đứa con và bà T. Sau đó, đối tượng châm lửa khiến ngôi nhà bốc cháy, hậu quả làm 4 người tử vong.
Đến ngày 28/7/2022, Tòa án Nhân dân Tp.Hải Phòng mở phiên xét xử sơ thẩm, kết luận bị cáo phạm tội “Giết người”và tuyên án tử hình đối với bị cáo Nguyễn Văn Hải. Sau đó bị cáo Nguyễn Văn Hải có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, trong phần xét hỏi, bị cáo Nguyễn Văn Hải thừa nhận hành vi mua 15 lít xăng và hất xăng vào phòng ngủ của bị hại tuy nhiên bị cáo cũng liên tục khẳng định việc mình không dùng bật lửa châm lửa đốt gây nên cái chết của 4 người.
Trước câu hỏi của đại diện Viện Kiểm sát hỏi về việc tại sao trước đó tại lời khai lần đầu khi bị cáo ra đầu thú đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội trong đó có châm lửa đốt nhà và hiện tại lại thay đổi lời khai, bị cáo cho rằng sau khi ra đầu thú, trong 3 ngày đầu bị cáo bị cơ quan điều tra bỏ đói và treo hai tay lên cửa sổ đánh.
Nghĩ vợ con mình đã mất cùng với việc bị đánh nên buộc phải khai nhận theo ý hướng dẫn của cơ quan điều tra. Bị cáo khẳng định viết bản khai trong tình trạng thần kinh không ổn định, tinh thần không còn giữ cân bằng.
Bên cạnh đó, bị cáo cũng cho rằng tại hiện trường vụ án có một chiếc camera của gia đình hàng xóm nằm ở vị trí tiếp giáp cửa phòng của bị hại do đó các cuộc trao đổi, nói chuyện giữ bị cáo và các bị hại đã được ghi lưu vào thẻ nhớ của chiếc camera này (hiện đã được cơ quan điều tra thu giữ). Do đó bị cáo đề nghị thực hiện giám định, công khai nội dung dữ liệu trong thẻ nhớ để làm căn cứ cho vụ án.
Chuyển sang phần tranh luận, đại diện Viện Kiểm sát giữ nguyên quan điểm, không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo. Đối với việc thay đổi lời khai của bị cáo, Kiểm sát viên cho rằng không có căn cứ để chứng minh việc bị cáo không châm lửa đốt do đó không làm thay đổi bản chất của vụ án.
Đối với việc bị cáo cho rằng trong quá trình điều tra các bản tự khai, biên bản lấy lời khai và biên bản hỏi cung là do cán bộ điều tra, điều tra viên ép cung, mớm cung cho bị cáo viết, Kiểm sát viên cho rằng đây là nội dung thiếu căn cứ chứng minh. Việc lấy lời khai của bị cáo ngoài cán bộ điều tra, còn có đại diện Viện Kiểm sát do đó không có chuyện bị cáo bị ép cung, mớm cung.
Trên cơ sở đó, đại diện Viện Kiểm sát cho rằng bị cáo Nguyễn Văn Hải đã phạm tội “Giết người” và đề nghị giữ nguyên mức tử hình như bản án sơ thẩm.
Tranh luận với đại diện Viện Kiểm sát, Luật sư Phạm Duy Bình – Văn phòng luật sư Phạm Hải thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội (người bào chữa cho bị cáo) cho rằng chưa đủ căn cứ chứng minh bị cáo cầm bật lửa gas châm lửa đốt vào xăng và cầm nắm giữ ổ khoá cửa phòng để không cho những người trong phòng chạy ra.
Theo hồ sơ và hiện trường vụ án xác định, diện tích căn phòng bị cháy có kích thước 3.7×2,7×3, thể tích khối khí của phòng là gần 30m3 khí. Lượng xăng được bị cáo mua là 15-17 lít bị đổ vào phòng như vậy thì khí xăng lúc này đã bay hơi ra và bao chùm cả căn phòng. Trong quá trình xô xát trước khi vụ cháy diễn ra, bản thân bị cáo cũng đã dính xăng trên người. Do đó nếu bị cáo dùng máy lửa châm lửa đốt như kết quả điều tra thì bản thân bị cáo cũng bị lửa bắt và bốc cháy, không kịp bỏ chạy để thoát thân.
Do đó, Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) cấp phúc thẩm cần có văn bản đánh giá khách quan và khoa học của các cơ quan chuyên môn chuyên biệt về trường hợp châm lửa đốt vào xăng của bị cáo Hải.
Luật sư cũng cho rằng lời khai nhận tội ban đầu của bị cáo đã có dấu hiệu bị ép cung, do đó đề nghị HĐXX không dùng lời nhận tội của bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội bị cáo.
Về vật chứng quan trọng của vụ án, Luật sư đề nghị HĐXX yêu cầu cơ quan điều tra làm rõ nội dung dữ liệu ghi được của chiếc thẻ nhớ trong camera đã bị thu giữ của gia đình ông Phùng Văn Tuấn – là hàng xóm của gia đình bị cáo. Do vị trí chiếc camera này nằm tiếp giáp vị trí cửa phòng của bị hại và có thể ghi lưu được các cuộc trao đổi, nói chuyện giữ bị cáo và các bị hại. Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã thu giữ thẻ nhớ này, tuy nhiên nội dung dữ liệu của thẻ nhớ trên lại không được đưa vào hồ sơ vụ án để xem xét.
Trên cơ sở đó, Luật sư đề nghị HĐXX xem xét huỷ bản án sơ thẩm, trả hồ sơ cho viện kiểm sát để chuyển cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ những tình tiết mâu thuẫn trong vụ án, làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Sau phần nghị án, HĐXX đã tuyên bản án phúc thẩm trong đó cho rằng việc thay đổi lời khai của bị cáo Hải là thiếu căn cứ, không cung cấp thêm được bằng chứng thuyết phục. Lời khai nhận tội ban đầu của bị cáo phù hợp với hồ sơ, chứng cứ của vụ án. Theo đó, hành vi của các bị cáo đã cấu thành tội “Giết người”.
Xét kháng cáo, bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt nhưng không đưa ra được tình tiết mới. Do đó, HĐXX không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm, tuyên phạt bị cáo tử hình về tội Giết người.
Link bài gốc: https://www.nguoiduatin.vn/y-an-tu-hinh-nguoi-dan-ong-phong-hoa-lam-4-nguoi-tu-vong-tai-hai-phong-a600688.html