Từ những chiếc vỏ sần sùi đến thớ giấy đặc biệt
Nằm sát trung tâm thị trấn Thông Nông, chỉ sau một hẻm núi là xóm Lũng Quang với mười mấy hộ dân đồng bào Tày Nùng thưa thớt. Tuy vậy, bản làng vẫn sung túc nhờ giữ được làng nghề làm giấy bản của ông cha.
Khi mặt trời lững thững đạp xe qua ngọn núi, những nhánh lá mạy sla đang đùa nghịch cùng làn gió xuân thì cũng là lúc người dân Lũng Quang bắt đầu nhóm lửa trong chiếc lò đất nung trước cửa nhà, từng làn khói quyện vào nhau, nối đuôi nhau bay lên, tiếng bà con í ới gọi nhau, tiếng đập vỏ cây, tiếng sàng nước… mang theo hơi thở của một làng nghề truyền thống với sức sống trăm năm.
Theo những người già trong làng kể lại, không biết giấy bản có từ bao giờ, chỉ biết ông cha truyền từ đời này qua đời khác, những thế hệ sau tiếp nối những thế hệ trước.
Chia sẻ với phóng viên, ông Trương Văn Bồng nhiệt tình chia sẻ: “Dù năm nay ngoài 60 tuổi tôi vẫn gắn bó với công việc làm giấy vì đây là nghề truyền thống của làng. Phần lớn bà con chúng tôi đều là nông dân, canh tác nông nghiệp trên núi, do làng thiếu nước, ít ruộng, rất khó khăn trong việc trồng trọt, nên cứ đến mùa bóc vỏ mạy sla thì chúng tôi sẽ tập trung làm giấy’.
Người Tày, Nùng ở Cao Bằng thường làm giấy bản từ vỏ mạy sla (cây dưỡng). Cây này mọc tự nhiên trên các triền đồi, núi cao. Vào tháng 2, 3, 6, 7, bà con thường đi bóc vỏ vì thời điểm này, cây dễ bóc vỏ nhất. Sau đó, bà con tước bỏ phần vỏ đen rồi đem ngâm trong nước vôi trong khoảng 12 giờ. Phần vỏ này sau đó được rửa qua nước rồi đun lên khoảng 3 giờ và tiếp tục ngâm nước sạch khoảng 2 ngày.
Tiếp đó, thanh niên trẻ, khỏe dùng gậy đập cho thật nát rồi đem xuống bể khuấy đều sẽ được một loại nước màu vàng nhạt, đặc sánh. Trong quá trình khuấy, đem trộn cùng bã giã từ cây dây trơn, để cho giấy khi vào khuôn không bị dính. Giấy vừa lấy ở khuôn ra được ép nước và rải lên 2 mặt lò nóng, khoảng gần 1 giờ sau, giấy sẽ khô. Cuối cùng, sẽ được một sản phẩm giấy bản có màu vàng nhạt, có độ mỏng vừa phải và dai. Trung bình một mẻ giấy bản dùng chừng 30 – 40kg nguyên liệu, làm ra được từ 400 – 500 tờ.
Cũng theo ông Bồng, mùa cao điểm bán giấy bản trong năm là từ giáp Tết qua tiết Thanh Minh: “Tết năm nào cũng vậy! Làm ra bao nhiêu thì người ta về tận nhà mua hết bấy nhiêu, trong làng có khi còn không đủ giấy để mang ra chợ bán”, ông Bồng hào hứng chia sẻ.
Riêng nghề làm giấy bản thì chỉ có dân tộc Tày, Nùng mới làm được. Đây là một nghề độc đáo và cổ xưa nhất miền sơn cước, hết sức độc đáo và rất khó cạnh tranh.
Kết nối tâm linh
Theo cụ Lý Thị Năm và một số già làng cao tuổi ở huyện Hà Quảng (Cao Bằng) thì đối với mỗi một người Tày, Nùng từ khi sinh ra, lớn lên và mất đi đều gắn bó với những nghi lễ và trong những nghi lễ đó đều có sự xuất hiện của giấy bản.
Một đứa trẻ từ khi còn trong bụng mẹ, đứa bé đã được làm lễ cầu chúc mẹ tròn con vuông; khi sinh ra tròn 1 tháng thì lễ lập bàn thờ mụ; tròn 1 năm thì làm lễ cầu bình an, tránh bệnh tật; tuổi thiếu niên thì làm lễ trưởng thành; về già thì làm lễ vằn khoăn, nhằm tăng thêm tuổi thọ; khi qua đời thầy Tào chủ trì đám tang, đưa linh hồn người mất về với tổ tiên.
“Tất cả những thăng trầm của cuộc đời đều được giấy bản chứng kiến, khi thì dùng giấy bản ghi chép lưu giữ các tài liệu truyện cổ dân gian, gia phả dòng họ… khi thì dùng để cắt giấy tiền, vàng mã. Đặc biệt, người dân còn dùng giấy bản để dán bàn thờ, trang trí trong nhà, dùng để viết chữ Nho, chữ Hán, bởi giấy dai và thấm mực, chữ viết không bị phai màu”, Cụ Năm tự hào chia sẻ.
Như vậy, giấy bản mang một giá trị hết sức tôn nghiêm trong các phong tục văn hóa, tín ngưỡng của đồng bào dân tộc Tày, Nùng ở Cao Bằng. Với cách làm thủ công truyền thống, giấy bản của người Tày, Nùng để được rất lâu; nếu bảo quản tốt, nó có thể tồn tại vài chục năm.
Ngày nay, nhiều người đã chọn giấy bản để gói bọc các loại bánh, xôi, bỏng ngô,… Ngoài đặc tính dai xốp, bền dai, không nhòe khi viết, vẽ, ít bị mối mọt, hoặc giòn gẫy, ẩm nát sản phẩm này cũng đảm bảo sự sạch sẽ bởi được làm hoàn toàn từ các thành phần tự nhiên, không dùng hóa chất hay thuốc tẩy rửa độc hại, ảnh hưởng tới sức khỏe con người và môi trường. Một điều đáng mừng là đến nay, giấy bản do bà con dân tộc Tày, Nùng làm ra không chỉ phục vụ nhu cầu trong tỉnh Cao Bằng mà còn được một số địa phương khác. Bên cạnh đó, từ khi tỉnh Cao Bằng triển khai Dự án “Tăng cường sinh kế cho người dân tộc thiểu số thông qua du lịch cộng đồng tại tỉnh Cao Bằng” đã khiến nhiều du khách biết tới giấy bản và đến tham quan, trải nghiệm những cơ sở làm giấy bản.
PV
Link bài gốc: https://www.nguoiduatin.vn/xuan-ve-tren-tho-giay-ban-vung-cao-a591274.html