Trở ngại và cơ hội song hành trong nền kinh tế
Chia sẻ tại hội thảo “Nhận diện điểm sáng kinh doanh và đầu tư năm 2024” sáng 26/3, TS. Võ Trí Thành – nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) đánh giá, kinh tế Việt Nam sắp bước qua quý I với nhiều điểm sáng tích cực.
Các chỉ số vĩ mô được duy trì ổn định, lạm phát trong tầm kiểm soát, vốn FDI đăng ký mới tăng gần 40%, chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) duy trì trên mốc 50 điểm… Dự báo của các tổ chức quốc tế như Bloomberg, Fitch Rating, Standard & Chartered đều đánh giá tăng trưởng GDP Việt Nam năm nay từ 6-6,7%, tương đồng với chỉ tiêu Quốc hội đặt ra từ 6-6,5%.
Về phía thị trường chứng khoán, VN-Index đang có giai đoạn phục hồi tốt lên gần 1.300 điểm, mức cao nhất kể từ tháng 8/2022. Không chỉ tăng mạnh về điểm số, thanh khoản thị trường cũng cải thiện đáng kể với nhiều phiên giao dịch “tỷ USD”, cho thấy niềm tin của nhà đầu tư về sự hồi phục của kinh tế Việt Nam.
Thị trường bất động sản cũng có dấu hiệu sôi động ở một số khu vực, một số dự án lớn sau thời gian dài chờ đợi đã bắt đầu công tác bán hàng.
Theo đó, ông Thành nhận định giai đoạn khó khăn nhất của kinh tế Việt Nam đã trôi qua. “Đây là giai đoạn vô cùng thú vị, nguy hiểm nhất sau chiến tranh, giai đoạn nói nhiều nhất về thay đổi thách thức phát triển, bền vững, bao trùm, sáng tạo. Một bên là trở ngại và một bên là cơ hội chưa từng có trong lịch sử, trước khủng hoảng nghĩ tới vượt qua giờ thì nghĩ thế nào về thử thách. Đây là giai đoạn cần nắm bắt cơ hội để vượt qua và bứt quá, thể hiện khó khăn và trở ngại”, ông nói.
Với nhận định trên, nguyên Phó Viện trưởng CIEM chỉ ra loạt điểm tích cực “chưa từng có” của thị trường trong giai đoạn này.
Đó là nguy cơ suy thoái của các đối tác thương mại tài chính đầu tư lớn nhất của Việt Nam đã giảm về mức thấp, lạm phát giảm nhanh nên áp lực lên chính sách tiền tệ sẽ giảm. Bên cạnh đó, xu thế phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, ứng dụng công nghệ… đang rất mạnh mẽ. Trong khi đó Việt Nam lại đang là chủ thể được hưởng lợi lớn nhất vì sự chuyển dịch của chuỗi cung ứng toàn đầu.
Dẫn chứng từ thực tế, vị chuyên gia chỉ ra hiện nay Việt Nam vẫn giữ vững lãi suất điều hành, tài chính tiền tệ tốt lên, tỉ giá dù có biến động nhưng vẫn trong tầm kiểm soát và vấn đề mất giá của VND ở quanh mức thấp chỉ từ 3% trở xuống.
Một điểm tích cực khác là xuất khẩu tăng rất mạnh, từ âm năm trước đã bắt đầu tăng trở lại, công nghiệp chế biến chế tạo quay trở lại trở thành động lực tăng trưởng cho thị trường.
Bên cạnh đó, đầu tư FDI rất tích cực, giải ngân 2 tháng đầu năm gần 10% là một con số chưa từng có, đầu tư công cũng thể hiện tốt ngay từ 2 tháng đầu năm 2024.
Tuy nhiên ông Võ Trí Thành cũng nhìn nhận rõ hiện vấn đề vẫn nằm tại thị trường bất động sản, dù Chính phủ có nỗ lực lớn nhưng chưa hồi phục. Ngoài ra, tiêu dùng có vẻ chững lại, đầu tư tư nhân, vay tín dụng còn có dấu hiệu quan ngại.
“Trong giai đoạn này, dù doanh nghiệp hay nhà đầu tư, nhà điều hành chính sách, phải có công cụ phòng thủ và biết nhặt nhạnh cơ hội để vượt khó, không được quên nắm bắt xu thế số, xanh. Chuyển biến về hành động, đừng quá bi quan, mà hãy nắm bắt cơ hội để vượt thách thức, từ đó giúp doanh nghiệp mình, giúp đất nước”, TS Võ Trí Thành nhấn mạnh.
Việt Nam đang có 7 trợ lực cho thị trường
Cũng chia sẻ góc nhìn tổng quan về nền kinh tế Việt Nam thời gian qua, TS. Cấn Văn Lực – Thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách Tài chính – tiền tệ Quốc gia, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV kiêm Giám đốc Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV cho rằng Việt Nam đang có 7 trợ lực quan trọng cho thị trường trong năm 2024.
Một, kinh tế thế giới và Việt Nam đang phục hồi nhưng lạm phát giảm nhanh và lãi suất thế giới bắt đầu giảm. Đối với Việt Nam dự báo năm 2024-2025 sẽ tốt hơn.
Hai, lạm phát tăng trong mục tiêu và lãi suất còn giảm nhẹ, tỉ giá sẽ ổn định hơn.
Ba, triển vọng và xu hướng thị trường .
Bốn, nghĩa vụ tài chính đã qua giai đoạn khó khăn nhất và tiếp cận vốn được duy trì.
Năm, vướng mắc về pháp lý dần được tháo gỡ; thể chế được quan tâm hoàn thiện.
Sáu, niềm tin phục hồi, dù còn chậm.
Cuối cùng, khả năng huy động vốn và nguồn lực đầu tư – kinh doanh dễ dàng hơn vay vốn lãi suất thấp hơn, thanh khoản thị trường tốt hơn.
Để có thể tân dụng tốt nhất 7 trợ lực kể trên, ông Cấn Văn Lực cho rằng thời gian tiếp theo, doanh nghiệp cần kiên định đúng, trúng, kiên trì; cơ cấu lại hoạt động kiểm soát rủi ro dòng tiền, lãi suất, tỉ lệ; chủ động tìm hiểu, tiếp cận các chương trình, gói hỗ trợ tài khoá, thuế – phí; đa dạng hoá nguồn vốn, thị trường, đối tác, nguồn cung.
Song một vấn đề quan trọng là doanh nghiệp cần đẩy mạnh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng; Tận dụng cơ hội từ việc nâng cấp quan hệ Việt Nam với Mỹ, Nhật Bản, Úc,…
Ông Cấn Văn Lực đưa ra một số lời khuyên cho nhà đầu tư chứng khoán, quan trọng nhất là khẩu vị rủi ro, đa dạng hoá danh mục đầu tư, đòn bẩy tài chính vừa phải, hạn chế tâm lý đám đông, tích luỹ kiến thức kinh nghiệm và sử dụng dịch vụ chuyên môn của các trung gian tài chính.
“Các động lực tăng trưởng truyền thống đang phục hồi, khả năng phục hồi sau đại dịch của Việt Nam được đánh giá tốt”, ông Lực nêu.
Link bài gốc: https://www.nguoiduatin.vn/tsvo-tri-thanh-giai-doan-kho-khan-nhat-cua-kinh-te-viet-nam-da-qua-a655878.html